Cả tuần nay mình không ngủ được, phần vì công việc nhiều và chỗ này chỗ kia không thuận, phần vì cứ quanh quẩn nhớ nhà. Lúc không ngủ được, mọi tiếng động bên ngoài đều trở nên rất rõ. Tiếng côn trùng kêu rỉ rả, tiếng ếch nhái, tiếng cá quẫy nước sát bờ, tiếng ghe tàu chở hàng xành xạch, tiếng đóng cửa rất khẽ của người khách bên cạnh đi đâu đó về muộn. Rõ đến nỗi mình phân biệt được tiếng ghe nhỏ chạy lướt qua và tiếng phà lớn chở cát trĩu oằn cà tằng cà tằng nặng nhọc, tiếng đàn cá rô phi nhỏ quẩn quanh bên bến sông lách mình theo triều lên kiếm thức ăn và tiếng quẫy mạnh của cá lớn, nghe được cả tiếng người đàn ông gác chốt cuối bờ sông cằn nhằn chuyện vợ nấu cháo cho chồng ăn khuya vừa loãng lại vừa nhạt.
Căn phòng mình ở nằm ở tầng một, cửa hướng ra vườn sát cạnh sông. Khu vườn nhỏ dành cho các gia đình trồng cây gia vị. Mỗi khi chuyển đi, họ tháo thẻ có ghi tên chủ trên cây và khách đến ở sau có thể tự nhiên thu hoạch cây lá đó nếu muốn. Mình thỉnh thoảng ra vườn đi dạo và hái vài cọng hương thảo, bạc hà về cắm trong phòng. Lẫn trong vườn gia vị, ai đó trồng mấy bụi hồng nở những bông hoa nhỏ xíu mọc thành chùm trên cành tủa gai nhọn sắc, cánh hoa đỏ thắm rực rỡ. Mình mở cửa sổ phòng thông ra vườn, bỗng thấy mùi hoa thơm dịu len lỏi vào phòng, hình như hôm nay bụi hồng lại nở thêm hoa, hình như mình nhìn thấy những nụ hoa chầm chậm nở, chầm chậm tỏa hương trong bóng tối.
Đã gần sáng, mình mở cửa kéo ghế ra ban công ngồi ngắm sông và đọc nốt cuốn sách được tặng, cả mặt sông tràn đầy nước và sóng sánh ánh trăng. Nước triều lên từ chập tối, đẩy dòng chảy ngược về phía thượng nguồn, đến gần sáng triều rút kéo theo đủ rong rêu bèo bọt từ thượng nguồn xuống hạ lưu. Mỗi ngày mình đều được nhìn nước sông lên xuống hai lần. Mùi nước cũng đổi theo buổi, đêm và sáng sớm nhẹ và mát hơn lúc chiều tối, gió thổi về không còn có mùi tanh tanh của phù sa và chất hữu phân hủy trong nước bị nắng hâm suốt cả ngày.
Đầu thu, Dịu đem tặng mình cuốn “Sợi tơ nhện” của bác Cao Huy Thuần, cuối thu một người bạn quý tặng mình cuốn “người khuân đá” của cùng tác giả. Hai cuốn sách với cùng mạch văn và cách viết, dùng những câu chuyện, tình huống cụ thể để trả lời những câu hỏi triết lý mà ai cũng từng tự đặt ra với mình về sự sống và cái chết, có và mất, luân lý và đạo đức, yêu thương và đau khổ, thiện và ác, lỗi lầm và tha thứ, thường và vô thường, ngã và vô ngã. Mình thích cách tác giả viết, thích cách ông dùng văn để nói triết, dùng đạo để diễn giải chuyện đời, thích sự an thản mà ông có, thích sự uyên thâm tinh tế ẩn trong các xưng hô trò chuyện hết sức khiêm nhường, thích cách ông dùng từ rất nhã và tả cảnh rất tình.
Đọc “người khuân đá” vào đêm trăng tròn bên dòng sông đầy ắp lấp lánh nước và gió, hình như nỗi bồn chồn vơi bớt và lòng mình dần chậm nhẹ như hương hoa hồng dìu dịu tỏa sau vườn.
Sài Gòn
Tháng 10 năm 2018